HƯỚNG DẪN GÂY TÊ VÙNG GAI SPIX RHM
Gây tê vùng: kỹ thuật và nguyên nhân thất bại
Vô cảm thất bại gồm:
Thần kinh huyệt răng dưới Không có dấu hiệu Vincent
Thần kinh má Còn cảm giác ở niêm má
Thần kinh lưỡi Còn cảm giác ởniêm mạc lưỡi
Gây tê thần kinh huyệt răng dưới
Thất bại khi gây tê dây thần kinh răng dưới do thuốc gây tê không vào đúng lỗ gai Spix,
và sự khuyếch tán không xuyên qua được cành cao xương hàm dưới-vốn khá dầy. Có 2
nguyên nhân:
• Đánh giá sai vịtrí giải phẫu lỗ gai spix.
• Sử dụng sai kim và sự khuyếch tán thuốc tê qua mô mềm không đủtác dụng lên
thần kinh.
Lỗ hàm dưới (lỗ gai Spix)
Lỗ gai spix có vịtrí phía sau và dưới gai spix. Nó là
điểm thấp nhất của hố hình phễu mà bó mạch thần kinh
răng dưới đi qua
Lỗ này thì có vịtrí ở giữa cành cao xương hàm dưới:
• Theo chiều đứng, lỗ gai spix là điểm giữa của
đường thẳng từ khuyếch Sigmoid đến bờ dưới của
cành cao xương hàm dưới.
• Theo chiều ngang, nó nằm giữa hai điểm nằm trên
đường chéo trong và bờ sau cành cao xương hàm
dưới (trên một đường thẳng).
Lưỡi hàm dưới thỉnh thoảng tạo thành một lồi xương
lồi ra, che khuất lỗ gai spix. (hình 5.2a)
Trẻ đang phát triển, khoảng 9 đến 19 tuổi, lỗ hàm dưới có vị trí cao và sau hơn so với
người lớn. Điều này lưu ý các phẫu thuật viên khi gây tê trẻ em.
Khi khám xương hàm dưới cần tiến hành cẩn
thận trong miệng và ngoài má tương ứng 2 hình (hình 5.2b,c). Bác sĩ đứng đối diện bệnh nhân, xác
định vị trí xương hàm dưới phải bệnh nhân bằng
tay trái của minh và ngược lại, theo tuần tự sau:
• Ngón trỏ và giữa đặt phía bờ sau cành cao
xương hàm dưới.
• Ngón út đặt bờ dưới xương hàm dưới.
• Ngón cái đặt trong miệng, dọc theo bờ
trước của cành cao, dưới cổ lồi cầu, vùng
này được bao phủ bởi cơ Thái dương.
• Đầu ngón cái di chuyển về phía trong của
khuyết xương hàm dưới, đối diện đường chéo trong.Kim gây tê hướng vào trung tâm cành cao xương hàm dưới, không cần phân biệt người
lớn hay trẻ em, theo hướng dẫn của ngón tay cái. Ống tiêm đặt ở răng tiền cối đối bên (hình
5-3, 5-4). Lưu ý, hình thái cung răng lúc này không quan trọng. hình 5.5
Theo chiều ngang, trục cung răng ngang
mặt phẳng nhai không liên quan đến trục
cành cao xương hàm dưới. Nó có vịtrí lớn
hơn 1 cm phía trong cành cao. Nếu hướng
kim theo trục này sẽ không chạm xương, và
hiệu quả gây tê sẽ kém (hình 5.5)
Theo chiều đứng, điểm đâm kim không
thểxác định được nếu chỉ dựa vào mặt
phẳng nhai, vì khoảng cách giữa hai mặt
phẳng nhai hàm trên và dưới khi bệnh nhân
há miệng tối đa thì không theo một qui luật
nào cả. Vịtrí lỗgai spix so với mặt phẳng
nhai thay đổi lớn. Hướng Đâm kim song
song và cách mặt phẳng này 5 mm và chạm
cành cao xương hàm dưới ở vị trí dưới lưỡi
xương hàm dưới chiếm tỉ lệ 36% trường hợp
lớn hay trẻ em, theo hướng dẫn của ngón tay cái. Ống tiêm đặt ở răng tiền cối đối bên (hình
5-3, 5-4). Lưu ý, hình thái cung răng lúc này không quan trọng. hình 5.5
Theo chiều ngang, trục cung răng ngang
mặt phẳng nhai không liên quan đến trục
cành cao xương hàm dưới. Nó có vịtrí lớn
hơn 1 cm phía trong cành cao. Nếu hướng
kim theo trục này sẽ không chạm xương, và
hiệu quả gây tê sẽ kém (hình 5.5)
Theo chiều đứng, điểm đâm kim không
thểxác định được nếu chỉ dựa vào mặt
phẳng nhai, vì khoảng cách giữa hai mặt
phẳng nhai hàm trên và dưới khi bệnh nhân
há miệng tối đa thì không theo một qui luật
nào cả. Vịtrí lỗgai spix so với mặt phẳng
nhai thay đổi lớn. Hướng Đâm kim song
song và cách mặt phẳng này 5 mm và chạm
cành cao xương hàm dưới ở vị trí dưới lưỡi
xương hàm dưới chiếm tỉ lệ 36% trường hợp
(Bermer). Ngón tay trỏ đặt song song với mặt nhai răng cối để hướng mũi kim đi vào là
phương pháp không chính xác. Theo chiều đứng, ngón cái nên đặt bờ trước cành cao xương
hàm dưới để hướng dẫn phẫu thuật viên đâm kim . Phải xác định chính xác
hướng của cành cao, đặc biệt khi thiếu răng sau; Cần xác định chiều cao và độ rộng cành
cao xương hàm dưới thật cẩn thận trước gây tê.
phương pháp không chính xác. Theo chiều đứng, ngón cái nên đặt bờ trước cành cao xương
hàm dưới để hướng dẫn phẫu thuật viên đâm kim . Phải xác định chính xác
hướng của cành cao, đặc biệt khi thiếu răng sau; Cần xác định chiều cao và độ rộng cành
cao xương hàm dưới thật cẩn thận trước gây tê.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét